Các bệnh thường hay gặp nhất ở chó mèo

– Cuối thời kỳ bệnh: xương bị biến dạng dạng, các khớp sưng to, các xương ống chân cong queo, sống lưng cong lên hay vặn vẹo, lồng ngực và xương chậu hẹp, ức lồi,… con vật gầy yếu dễ mắc các bệnh khác.
TRIỆU CHỨNG:
– Hầu hết chó mắc bệnh ở thể cấp tính với các triệu chứng điển hình: sốt cao từ 39- 42oC, các niêm mạc đều bị viêm, mắt chó bị sưng húp, chảy nước mắt và có ghèn liên tục.

– Chó thở khó khăn, khò khè và rên rỉ do viêm phổi cấp có mủ.
– Chó bị viêm niêm mạc đường tiêu hoá, thể hiện nôn mửa liên tục, tiêu chảy có máu và niêm mạc nhầy. Hội chứng viêm ruột làm cho chó kiệt sức và chết nhanh vì mất nước, mất máu, chất điện giải.
– Hội chứng thần kinh cũng thấy xảy ra phổ biến ở chó bệnh như run rẩy, đi lại xiêu vẹo, lên cơn co giật, mắt trợn ngược, chảy nước dãi. Trên mặt, da bụng, bẹn, nách của chó thường có những nốt mụn mủ như hạt đậu vỡ ra và khô đóng vẩy.
– Bệnh phổ biến và gây chết chó con từ 2 – 6 tháng tuổi. Chó trưởng thành trên một năm tuổi ít thấy mắc bệnh. Một số chó sau khi điều trị khỏi bệnh thường có di chứng thần kinh như : đi choải chân, run rẩy khi đi lại…
PHÒNG BỆNH:
Tiêm phòng cho chó lúc 3 tháng tuổi bằng vaccine phòng bệnh Carê (VN) hoặc dùng vaccin DHPPi + L (Hà lan): phòng cùng lúc 5 bệnh Carê, Viêm gan truyền nhiễm, Parvovirus, Phó cúm, Lepto .
Thực hiện vệ sinh thú y và chăm sóc, nuôi dưỡng tốt giúp chó có sức đề kháng chống lại bệnh. Chuồng trại và môi trường thả chó phải làm vệ sinh định kỳ, hạn chế môi giới truyền bệnh và chống ô nhiễm.
ĐIỀU TRỊ:
Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, khi chó bệnh thì phải cách ly để tránh lây nhiễm sang chó khỏe khác và đưa chó đến các phòng mạch Thú y để được hướng dẫn điều trị.
Có thể sử dụng một trong các loại thuốc kháng sinh trị nhiễm khuẩn kế phát như:Vime-Tobra, Amoxi 15 % LA, Vimexyson C.O.D, Spectylo, Lincocin 10%…. Kết hợp với các thuốc bồi dưỡng, trợ sức sau: vitamin C, B. complex fortified , Paravet, Atropin, Na.campho,…
Do chó bị tiêu chảy nhiều, nên truyền dịch Glucose 5% bù đắp nước và chất điện giải để chó mau hồi phục.
BỆNH DẠI
TRIỆU CHỨNG:
* Thể điên
Sau thời gian ủ bệnh chó lên cơn điên dữ dội: mắt đỏ ngầu, chảy dãi như bọt xà bông quanh mép, không còn cảm giác, lao vào mọi người kể cả chủ nó và các con vật khác để cắn xé. Thời kỳ này chó bỏ ăn hoặc nhai nuốt tất cả vật gì mà nó gặp trên đường đi. Chó sủa có tiếng khàn khàn hoặc rú lên từng hồi ghê rợn khác hẳn với trạng thái bình thường. Vài ngày sau đó chó bỏ nhà đi hoặc rúc vào bờ bụi, xó tối và chết trong trạng thái gầy rạc, kiệt sức, bại liệt vơí những vết thương rớm máu trên thân thể do tự cắn xé. Bệnh tiến triển trong vòng 2- 5 ngày chó suy kiệt rồi chết.
* Thể bại liệt
Đầu tiên chó thể hiện các trạng thái bất thường: ngơ ngác, bồn chồn, đi lại, ăn ít hoặc bỏ ăn. Sau đó chó lặng lẽ chui vào một xó tối nằm im, do đó gọi là thể dại im lặng hoặc thể dại câm, khác hẳn với thể điên cuồng. Vài ngày sau, chó bị liệt chân, liệt hàm, không thể há mồm ra được nhưng nước dãi vẫn chảy quanh mép như bọt xà phòng. Sau khi phát bệnh từ 3 – 5 ngày, chó chết trong trạng thái bại liệt hoàn toàn.
Thể này rất nguy hiểm vì người ta không nghĩ đến bệnh dại và mấy ngày đầu chó có thể cắn chủ nhà khi đến chăm sóc nó. Thể bại liệt chiếm 20 – 30% số chó bị bệnh dại.
PHÒNG BỆNH:
Bệnh dại rất nguy hiểm vì hiện nay không có thuốc điều trị đặc hiệu. Ở nước ta việc phòng chống bệnh dại đã đưa thành chương trình quốc gia phòng chống bệnh dại. Trong đó qui định tất cả chó, mèo nuôi đều phải được tiêm phòng dại và lập lại định kỳ hằng năm.
ĐIỀU TRỊ:
Nhằm tránh sự lây truyền bệnh dại, khi bị cắn cần thực hiện các biện pháp sau:
– Rửa sạch vết thương bằng xà bông, sau đó sát trùng lại bằng cồn. Không dùng các phương pháp phòng bệnh dân gian như lấy nọc, uống thuốc nam…
– Đến ngay trạm Vệ sinh phòng dịch gần nhất tiêm vaccin phòng chống bệnh dại. Trường hợp vết cắn gần vùng đầu hoặc vết thương quá sâu phải tiêm phòng bằng kháng huyết thanh dại trước khi tiêm phòng bằng vaccine. Trường hợp cần thiết có thể tiêm thêm vaccine phòng uốn ván theo chỉ định của cơ quan y tế.
– Chó, mèo cắn người phải được đem đến cơ quan thú y để chẩn đoán theo dõi xem có bị dại hay không. Tuyệt đối không được giết chết chó, mèo cắn người- khi chưa xác định là có mắc bệnh dại hay không.

BỆNH VE TRÊN CHÓ
Có nhiều loài ve ký sinh trên chó, nhưng thường thấy nhất là loài ve Rhipicephalus sanguineus, ve có hình quả lê và màu nâu đen, chiều dài ve từ 3 – 4,5 mm (khi chưa hút máu), khi hút máu no kích thước cơ thể ve tăng lên nhiều lần. Vị trí ký sinh của ve chú yếu gần tai, mắt, vành tai, cổ, kẽ ngón chân, trường hợp nhiễm ve nặng thì ve bám đầy cơ thể. Chó ở mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm ve.
Vòng đời:
Ve phát triển qua 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thiếu trùng và ve trưởng thành. Ve cái trong thờigian hút máu giao phối với con đực, sau đó ở thời điểm thích hợp rời bỏ ký chủ và chọn nơi có nhiệt độ, ẩm độ thích hợp và không có ánh sáng chiếu vào trực tiếp bắt đầu đẻ trứng. Ve thường đẻ trứng trong các khe, kẽ của tường nhà nơi chó thường hay nằm nghỉ ngơi, sau khi đẻ trứng ve cái sẽ chết. Trứng sau 2-5 tuần tuỳ điều kiện khí hậu sẽ phát triển thành ấu trùng, sau đó tìm ký chủ là chó hút máu phát triển thành thiếu trùng và ve trưởng thành, sau đó tiếp tục vòng đời.
Tác hại của ve:
Vết cắn của ve tạo nên vết thương cục bộ, mở đường cho vi khuẩn gây hại xâm nhập vào, gây nhiễm trùng cục bộ hay nhiễm trùng toàn thân. Bên cạnh đó độc tố do ve tiết ra làm đầu độc cơ thể chó. Khi chó nhiễm ve ở cường độ cao thì con vật bị mất máu và luôn luôn ở trong trạng thái bị kích thích, nên đôi khi chó có biểu hiện cắn táp những người xung quanh, thậm chí là chủ nhà khi bị tác động nhẹ.
I. Triệu chứng:
Trường hợp nhiễm ve nhẹ, thấy ve bám ở trong và ngoài vành tai, vùng cổ, kẽ ngón chân. Khi chó nhiễm ve nặng thì ve bám đầy cơ thể, chó bỏ ăn, gãi thường xuyên, chó trong tình trạng mất máu, da tái nhợ, cơ thể gầy sọp, da lông xù xì, dầy lên, chó gậm, liếm cào cấu thường xuyên.
II. Phòng bệnh:
Để kiểm soát ve ta nên định kỳ phun thuốc sát trùng chỗ ở của chó, như chuồng, góc nhà, vách tường, sân 10 ngày/ lần.
Giữ vệ sinh lông chó, nên tắm cho chó bằng Vime – Shampo định kỳ.
Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho chó.
Tiêm Vimectin 2-3 tháng/ 1 lần .
III. Trị bệnh:
Để đạt kết quả trong điều trị nên kết hợp điều trị đồng bộ như sau:
– Tiêm thốc đặc trị : Vimectin: 1ml/10 kg thể trọng
– Tắm chó bằng Vime – shampo: 1 tuần/ lần, sau đó xịt Vime-Frondog, xịt ngược chiều lông chó. Trường hợp nhiễm ve nặng có thể dùng Vimectin lập lại lần 2 sau 1 tuần. – Xịt thuốc sát trùng định kỳ nơi chó ở, xung quanh nhà.
BỆNH VIÊM GAN ( HEPATITIS )
NGUYÊN NHÂN:
Chó ở mọi lứa tuổi đều có thể bị bệnh, nhưng chó con dễ nhiễm bệnh hơn chó trưởng thành
TRIỆU CHỨNG:
Virus phá hủy thành mạch máu gây xuất huyết tràn lan. Chó sốt cao 40 – 41oC, khát nước, kém ăn, ăn không tiêu, ói ra máu, tiêu chảy đôi khi có máu, đau bụng, niêm mạc tái, có điểm xuất huyết. Viêm kết mạc, tiết rất nhiều dịch từ mắt, mũi, hai mắt lờ đờ, chó gầy yếu và chết. Đôi khi có trường hợp bụng to sờ vào chó rất đau, phù toàn thân nhất là vùng cổ, ngực, bụng, mí mắt. Chó khỏi bệnh nhưng tăng trọng chậm, đục giác mạc.
PHÒNG BỆNH:
Tiêm phòng trước bằng vaccin DHPPi + L (Hà lan) lúc chó được 3 tháng tuổi để phòng cùng lúc 5 bệnh: Carê, Viêm gan truyền nhiễm, Parvovirus, Phó cúm, Lepto .
Khi chó bệnh nên mang chó đến các phòng mạch thú y để được hướng dẫn chăm sóc và phòng các bệnh nhiễm trùng kế phát.
ĐIỀU TRỊ:
Bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu dùng Marbovitryl phòng vi khuẩn gây bệnh bội nhiễm và các thuốc trợ lực để tăng sức đề kháng như Vitamin C, B.complex
VIÊM DẠ DÀY – RUỘT CẤP TÍNH
NGUYÊN NHÂN:
Bệnh phổ biến xảy ra quanh năm thường thấy nhiều vào mùa hè khi thời tiết nóng và mưa ẩm ướt. Có 3 nguyên nhân có thể gây ra viêm dạ dày và ruột cấp ở chó.
– Do giun móc (Ancylostoma caninum) : giun móc có những móc nhọn bằng kitin cắm vào vách ruột non ở phần tá tràng, không tràng để hút máu, tạo ra những tổn thương và xuất huyết trong tổ chức niêm mạc ruột. Vi khuẩn có sẵn trong niêm mạc ruột sẽ xâm nhập vào những chỗ bị tổn thương gây thành bệnh viêm ruột cấp.
– Do virus: Virus Parvo, Virus Carê khi xâm nhập vào hệ thống tiêu hóa của chó phát triển nhanh chóng, phá hoại niêm mạc dạ dày và ruột.
– Do vi khuẩn : Chó ăn uống phải thức ăn và nước uống có chứa vi khuẩn thương hàn (Salmonella), vi khuẩn yếm khí (Clostridium), vi khuẩn E.Coli… Những vi khuẩn này sẽ phát triển trong niêm mạc đường tiêu hóa gây ra bệnh viêm dạ dày và ruột cấp.
TRIỆU CHỨNG:
– Vài ngày đầu chó ít ăn hoặc bỏ ăn, sốt 39,5 – 40oC, có kèm theo các cơn run rẩy. Sau đó, chó nôn mửa liên tục đồng thời tiêu chảy nặng, phân lúc đầu táo bón sau loãng có màu xám vàng, có lẫn niêm mạc dạ dày và ruột lầy nhầy, có mùi rất tanh.
– Do nôn mửa và tiêu chảy liên tục, chó mất nước thể hiệûn: mắt trũng, bụng thót, da nhăn nheo. Khi bị mất nước chó không được điều trị kịp thời sẽ chết sau một vài ngày.
– Thời kỳ cuối của bệnh, chó thường chảy máu ruột nên phân có màu nâu sẫm hoặc lờ đờ như máu cá. Trước khi chết thân nhiệt chó thường hạ thấp . Thời kỳ này chó không đi được, kiệt sức, nằm một chỗ và chết.
– Bệnh viêm dạ dày và ruột cấp nếu không chữa trị kịp thời, chăm sóc chu đáo thì chó sẽ chết 90 – 100% trong thời gian 2 – 4 ngày. Một số chó qua khỏi nhưng chuyển thành thể viêm dạ dày ruột mãn tính. Thể bệnh này làm chó bị gầy còm, thiếu máu do kém ăn, lúc thì táo bón, lúc thì tiêu chảy.
PHÒNG BỆNH:
– Cho chó ăn thức ăn nấu chín, không cho ăn thịt sống và trứng sống, vì trong thịt sống và trứng sống dễ bị nhiễm các loại vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa như: vi khuẩn thương hàn, trực khuẩn yếm khí, trực khuẩn E.Coli. Không cho chó ăn thức ăn ôi thối, cho uống nước sạch không nhiễm bẩn.
– Thực hiện tẩy giun sán định kỳ cho chó bằng Vimectin cứ 3- 4 tháng tẩy 1 lần để tránh gây tác hại cơ giới dẫn đến viêm ruột cấp.
– Định kỳ tiêm phòng vaccine chống bệnh Carê và Parvovirus.
ĐIỀU TRỊ:
Nguyên tắc chung là chẩn đoán đúng nguyên nhân gây bệnh từ đó điều trị nguyên nhân kết hợp với điều trị triệu chứng, trợ sức và trợ tim mạch.
Điều trị bằng một trong các loại kháng sinh sau:
Spectylo : liều 1ml/ 3 – 5 kg thể trọng.
Tylenro 5 + 5 : liều 1ml/10kg thể trọng/ngày.
Kết hợp với điều trị triệu chứng và bồi dưỡng bằng các loại như :
Vime C : liều 500mg/con/ngày.
Vitamin B6 : liều 1ml/con/ngày.
Vitaral : liều 1ml/10kgP
Paravet : liều 1ml/4 kgP.
Atropin : liều 2ml/10 -15 kgP
Na.campho : liều 2 – 4 ml/con/ngày.
Truyền glucose 5% để cung cấp nước và chất điện giải giúp chó mau hồi phục.
Chú ý:
Đối với nguyên nhân gây bệnh là giun móc thì sau khi chó hồi phục trở lại bình thường nên dùng thuốc tẩy giun móc như:
Levavet liều 0,5 ml/10 kgP, sau 2 -3 tháng tiêm lập lại .
Vimectin for dog 0,1% liều 0,2ml/ kg P tiêm bắp hay tiêm dưới da.
BỆNH CÒI XƯƠNG TRÊN CHÓ
Bệnh còi xương là một loại bệnh ở gia súc non trong thời kỳ phát triển, do trở ngại về trao đổi canxi, photpho và vitamin D gây ra. Tổ chức xương không được canxi hóa hoàn toàn nên xương phát triển kém.
I. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân:
– Do thức ăn (hoặc sữa mẹ) thiếu canxi, photpho, vitamin D. Hoặc tỷ lệ giữa canxi và photpho không thích hợp.
– Do con vật ít được tắm nắng, chuồng trại thiếu ánh sang, từ đó ảnh hưởng đến tổng hợp vitamin D.
– Do chó bị bệnh đường ruột làm trở ngại đến việc hấp thu khoáng.
– Do chó bị thiểu năng tuyến phó giáp trạng gây mất cân bằng tỷ lệ Ca, P trong máu.
II. Cơ chế sinh bệnh
Khi hàm lượng canxi trong cơ thể giảm, tỷ lệ Ca/P bị phá vở ảnh hưởng đến sự tạo xương và sụn, nhất là sự hóa cốt ở các đầu xương. Do vậy, xương bị biến dạng, đặc biệt rõ ở xương ống. Những con bị bệnh ống xương thường cong queo, ảnh hưởng đến vận động, làm cho gia súc què hoặc liệt.
Ngoài hiện tượng xương bị biến dạng, khi hiếu canxi còn gây triệu chứng co giật ở con vật bệnh. Cũng do thiếu canxi, photpho con vật hay ăn bậy nên dễ mắc bệnh đường tiêu hóa, con vật ngày càng gầy, chậm lớn, khả năng kháng bệnh kém.
III. Triệu chứng
– Giai đoạn đầu: con vật thường giảm ăn, tiêu hóa kém, thích nằm, có hiện tượng đau các khớp xương.
– Giai đoạn bệnh tiến triển: con vật hay ăn dở, liếm bậy bạ, mọc răng và thay răng chậm. Một số trường hợp còn có hiện tượng co giật từng cơn.
– Cuối thời kỳ bệnh: xương bị biến dạng dạng, các khớp sưng to, các xương ống chân cong queo, sống lưng cong lên hay vặn vẹo, lồng ngực và xương chậu hẹp, ức lồi,… con vật gầy yếu dễ mắc các bệnh khác.
VI. Điều trị
– Cải thiện khẩu phần ăn, bổ sung canxi, photpho và vitamin D vào thức ăn hàng ngày. Nếu con vật bị liệt cần lót ổ cho chó nằm, thường xuyên xoa bóp và trở mình cho con vật.
– Bổ sung vitamin D: 5000UI/con. Tiêm bắp Poly AD 0,5ml/ngày.
– Dùng canxi bổ sung trực tiếp vào máu: Tiêm Vime-Calamin 1ml/2kg thể trọng/ngày.

Related posts:

Nội Dung Khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *